Tượng thần
Rắn.

“Ông trông về xa mãi, nhưng chỉ thấy con người và cái hữu hạn của đời người. Trước đây, bây giờ, sau này và vĩnh viễn về sau.”
Không ai rõ tượng Thần đã ở chân vách đá từ bao giờ. Làng không lớn lắm, từ sông này sang sông kia chỉ hết gần một tiếng đi bộ, bên kia sông là rừng sâu hun hút và những con đường mòn chở khách phương xa. Hơn một trăm thế hệ đã cười và khóc trên mảnh đất này; những cuộc chiến tranh, xâm lược, những chia ly và đoàn tụ, tượng Thần đều chứng kiến cả. Người làng tin khi xưa Thần đã bay qua mảnh đất này mà khóc than cho phận con người, nước mắt Thần rơi xuống trở thành tượng mọc cao hơn những ngọn cây cao nhất, để từ đó Thần dõi theo và sẻ chia nỗi buồn cùng nhân loại.
Trên con đường buổi mai thấm sương mù, trưởng làng vẫn thấy được bóng tượng thần lờ mờ để lần theo. Sương dày đến mấy cũng không che khuất được nét u sầu dưới vách đá, dân làng nhờ vậy không bao giờ lo lạc đường, mặc trẻ con chạy nhảy, trốn tìm. Sợ Thần thấy cô đơn, mỗi ngày họ ghé một, hai bận, để lại củ khoai, trái táo, nắm lá chè trước khi lên rẫy. Trẻ con đi cùng thì để lại món đồ chơi, rồi hoặc chơi luôn ở đó hoặc theo bố theo mẹ lên đường, lúc về thì lấy lại. Trưởng làng thường lân la đến nhắc nhở từng nhà mang đồ lên cúng Thần, song thực tế ông chỉ là muốn đi chào hỏi mọi người.
Thằng Gấu con dẫm lên từng mảng đất ẩm màu nâu, tay nó víu lấy quần của ông nội, mắt nhìn đăm đăm xuống đường. Trưởng làng một tay ôm hờ lưng thằng nhỏ, đi chậm rãi. Nhìn nó, ông lại nhớ Gấu bố ngày trước, cũng cái tuổi lên sáu này nhưng đã tập tành trèo cây. Gấu bố hồi nhỏ thích trốn tìm làm ông và vợ nhiều phen tất tả đi kiếm vì rừng xanh trải dài đến chân trời. Chẳng ai sợ nó đi lạc vì Thần vẫn luôn dẫn lối về, nhưng họ sợ nó trốn một hồi thì chẳng muốn ai tìm mình nữa. Thế rồi nỗi sợ thành hiện thực vào năm Gấu bố tròn hai mươi tuổi, khi đó Gấu con được mấy tháng. Người cuối cùng nhìn thấy Gấu bố là người em song sinh.
Người làng vẫn bảo nhau hai anh em Gấu là hiện thân của Thần, người thì nói anh em họ là phước Thần ban cho nhờ công trạng thời chiến của trưởng làng, người thì bảo do đất làng vốn thấm đẫm nước mắt Thần suốt mấy trăm năm, rồi cũng có ý kiến cho rằng hai đứa song sinh lại chính là con của Thần trong một đêm vụng trộm của bà vợ trưởng làng. Bà vốn dở người và sùng tín từ lâu, và ai cũng biết chuyện bà lén rời làng vào một đêm đầy sao, sáng hôm sau người ta thấy bà nằm ngủ dưới chân vách đá. Trưởng làng chưa bao giờ ý kiến điều gì, vẫn thương vợ và hai đứa con. Nhưng niềm tin về sự gắn kết với Thần của hai đứa là thật: chúng hay chia sẻ nỗi buồn cho nhau. Hễ đứa này khóc là đứa còn lại cũng khóc, dù có cách nhau một con sông hay một ngọn đồi, dù đang ngủ hay thức, dù ngày, dù đêm.
“Hôm qua bố mi có khóc không?” trưởng làng hỏi Gấu con.
“Không”, nó lắc đầu.
“Ông nhờ mi đếm ngày thế mi có đếm không?”
Gấu con xòe mấy ngón tay rồi nói:
“Chín ngày. Con đếm chín ngày rồi bố không khóc.”
“Chín ngày… Thế bố có cười không?”
Gấu con lắc đầu nguầy nguậy.
Chín ngày. Rồi có thể sẽ là mười ngày, hai mươi ngày, trưởng làng nghĩ. Sương đã mờ dần và tượng Thần đã ở phía trước một đoạn không còn xa. Song, tâm trí ông vẫn còn mắc lại trong làn sương đang tan dần. Ông nhớ đến lần Gấu bố trèo lên tượng Thần mặc cho người lớn ai ai cũng đến can ngăn. Đám trẻ con đứa thích thú, đứa sợ hãi. Không ai dám chạm vào tượng Thần, thành thử đành mặc cho Gấu bố nằm vắt vẻo trên đó suốt một ngày trời trước khi trượt chân ngã lúc hoàng hôn. Kể từ đó nó chẳng bén mảng đến tượng Thần nữa, và bắt đầu hỏi những câu rất lạ:
“Tại sao Thần lại khóc cho loài người? Khóc cho cái gì mới được?”
“Thần chỉ khóc cho số phận bất hạnh của loài người thôi”, trưởng làng chỉ trả lời được có thế.
“Con không thấy bất hạnh, con thấy rất vui. Vậy Thần không khóc cho con nữa ư?”
Trưởng làng không còn nhớ mình đã trả lời nó thế nào, hay có trả lời nó hay không. Nhưng giờ cũng chẳng còn quan trọng nữa, ông nghĩ.
Vài người dân đi qua chào hai ông cháu, cho Gấu con mấy thứ ăn vặt linh tinh, còn ông dạy thằng nhóc vẫy chào người khác. Ông cất tiếng hỏi nó:
“Mẹ mi có hay hát cho mi nghe không?”
“Mẹ hát cho con vào sinh nhật.”
“Thế à?”
Mặt trời lên dần, đẩy lùi cái vẻ u uất dưới vách đá.
“Bố với mẹ, mi thương ai hơn?” trưởng làng cười, hỏi.
“Bố. Bố hay dẫn con đi chơi. Bố hẹn chiều dẫn con đi câu cá. Con… con bảo bố dạy câu cá nhưng bố không cho, bảo con chưa đủ lớn, chỉ được ngồi xem thôi. Khi nào con mới lớn hả ông?”
Trưởng làng không nói không rằng một hồi lâu, mắt mải nhìn về tượng Thần, rồi nói:
“Khi nào mi học cách thương mẹ mi, thì lúc ấy mi đủ lớn. Nếu bố mi bận thì ông dẫn mi đi câu cá.”
Gấu bố thương người mẹ ngẩn ngơ của mình, dù người làng thấy nó to tiếng với mẹ nhiều nhất. Vào cái ngày mà Gấu mẹ (tức vợ Gấu bố đã đi biệt tích) nhận ra mình có Gấu con, đêm hôm ấy bà mẹ chồng lại lang thang ra khỏi làng đến trước chân tượng Thần. Nửa đêm người ta nghe tiếng gấu xám rên rỉ. Sáng hôm sau người ta chỉ tìm thấy bộ váy bị xé rách và những thứ nhầy nhụa khác cũng chẳng còn nguyên. Lần ấy người làng tá hỏa vì mấy trăm năm nay chưa có chuyện gấu ăn thịt người. Trưởng làng và những cựu binh khác trấn an dân làng rằng gấu xám thường chỉ hung dữ để bảo vệ con, và có lẽ những hành động bất thường của vợ ông đã khiến chúng hoảng sợ. Gấu bố nổi giận.
“Ý ông tất cả là lỗi của mẹ vì đã đe dọa lũ thú vật đó? Bởi vì… bởi vì mẹ không được bình thường, phải thế không? Có ai ở đó và thấy mẹ đã làm gì sao? Ông và cả cái làng này có mắt như mù cả, trong khi sự thật rành rành ngay trước mắt. Chính cái tượng Thần đó là lý do mẹ bị giết! Tất cả là lỗi của nó, vậy mà mọi người còn tôn sùng nó trong khi nó đã giết người…”
“Con phải hiểu rằng không phải bi kịch nào trên đời cũng do lỗi của ai mà nên. Nghe bố đi con, nếu chúng ta chỉ biết đổ lỗi cho nhau thì có giải quyết được gì…”
“Vậy tôi phải nhìn thứ giết mẹ mình mỗi ngày được người ta thờ cúng như một người bạn, một người bảo hộ của cái làng này ư, ông bảo tôi phải làm vậy ư? Rằng chúng ta nên quên hết đi, tươi cười với nhau, khóc lóc với nhau vì ‘đừng lo, Thần sẽ khóc than cùng chúng ta’? Khóc than thì giải quyết được gì? Sao Thần không cứu mẹ mà chỉ biết khóc lóc? Tại sao tôi phải thờ một thứ vô dụng như thế!”
Cả hai anh em nước mắt chảy ròng, nhưng đứa em không nói không rằng. Gấu bố dứt khoát túm lấy cái rìu treo trên tường, bước một mạch ra cửa rồi dừng lại, nói:
“Tôi thờ cái rìu này đây. Mai sau mọi người lên thờ cái tượng rẻ rách cũng chẳng cần lo bị ai tấn công, cũng chẳng cần cảm ơn tôi, đi mà cảm ơn Thần của các người.”
Thằng anh đi rồi, còn đứa em cứ rỏ nước mắt mãi, Gấu mẹ phải dìu em chồng vào giường tới khi nó thiếp đi. Hôm sau Gấu bố trở về, chẳng hé một lời, chẳng còn thăm thú ai, không nói lời nào với bố, chỉ ở nhà với vợ. Gấu con sinh ra được mấy tháng thì Gấu bố đi biệt.
Những lời nói trong cơn giận không làm suy chuyển đời sống tinh thần của dân làng là bao, chỉ trừ có trưởng làng. Đứa con trai còn lại của ông vốn ngoan ngoãn, vâng lời, song kể từ lúc anh đi thì ít nhất hai ngày lại khóc một lần. Chàng yêu thương Gấu con như con ruột dù chẳng thấy nói chuyện nhiều với Gấu mẹ. Chàng vốn kiệm lời trong trò chuyện với dân làng, với gia đình, càng kiệm lời hơn khi nói về anh trai. Không ai biết những lời cuối cùng mà Gấu bố để lại cho em mình là gì, và qua thời gian cũng chẳng ai muốn đào bới lại chuyện xưa.
Trưởng làng mặc cho Gấu con chạy xung quanh, còn mình đứng ngắm tượng Thần mà ngẫm nghĩ lại chuyện đời. Mặt trời vươn quá tầm mắt, soi rõ toàn bộ hình hài của nỗi u sầu năm xưa Thần để lại. Ông bước đến gần hơn. Bước chân mỗi lúc nhẹ dần như đi trên gió. Trời quang đãng. Chín ngày. Rồi bất giác ông sờ tay lên tượng.
Ông trông thấy đàn kiến bò hàng dài từ một lỗ nhỏ, rồi bò lên cả tay ông. Chúng mang theo xác một con côn trùng mà giờ khó còn có thể nhận dạng. Ông vuốt nhẹ bàn tay lên bề mặt gồ ghề của tượng Thần, tí thì bị xước do vật nhọn nhô ra. Vách đá phía sau tượng Thần đã mọc rêu từ lúc nào chẳng hay. Bao nhiêu năm rồi có ai nhìn tượng Thần gần thế này chưa, có thấy nó đã cũ kỹ và hao mòn đến thế chưa, ông nghĩ, và ông nghĩ về thân thể mình. Trưởng làng giơ cánh tay ra sau tượng, nhìn bóng tượng Thần đổ lên mình, hệt như bóng của mọi sự vật khác trong dòng chảy của thời gian. Ông ngoảnh mình về phía thằng Gấu con đang nằm dài trên cỏ. Ông nhìn ra xa hơn, thấy bóng làng mình mờ mờ, thấy nương rẫy và những bóng người cúi khom khom.
Ông trông về xa mãi, nhưng chỉ thấy con người và cái hữu hạn của đời người. Trước đây, bây giờ, sau này và vĩnh viễn về sau.
Thằng Gấu con thấy ông ngã quỵ xuống liền chạy một mạch về làng báo. Bố nó còn ở nhà liền chạy đi ngay cùng hơn chục người làng nữa. Lên tới nơi, họ thấy trưởng làng đang quỳ và khóc nức nở. Con trai ông chạy vội đến hỏi bố, cố dìu bố dậy, hỏi sao bố lại khóc. Trưởng làng nói tiếng được tiếng mất:
“Bố khóc cho Thần… Vì Thần đã quá đau buồn… quá đau buồn khi dõi theo chúng ta… dõi theo cả anh con. Bất hạnh ở đây, bất hạnh ở ngoài kia. Đâu đâu cũng bất hạnh. Nhưng… nhưng chúng ta chỉ có thể sống tiếp, ấy cũng là một bất hạnh. Giờ bố mới hiểu… phải đến giờ bố mới hiểu được Thần…”
Con trai ông không cố dìu ông dậy nữa, để cho bố tiếp tục khóc. Tay chàng vuốt tấm lưng già của bố, mắt nhìn về phía những người làng nửa hiếu kỳ, nửa xúc động. Rồi chàng khóc, miệng chàng nửa mếu máo nửa cười, rồi chàng ôm bố. Trưởng làng hỏi:
“Lần này… lần này là con khóc hay anh con đang khóc?”
Chàng không nói một lời, chỉ ôm bố mà khóc. Thằng Gấu con thấy bố và ông nội khóc thì khóc theo. Và có lẽ Thần cũng đang khóc.
Cover photo by Nguyên Vũ.